Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc phát biểu tại Diễn đàn.
Chủ đề chính của Diễn đàn Kinh tế Việt Nam lần thứ hai là “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững: Những thách thức và động lực mới”. Sự kiện do Ban Kinh tế Trung ương chủ trì, phối hợp với các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Công Thương, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước và Viện Hàn lâm Khoa học xã Việt Nam cùng một số tổ chức phát triển quốc tế, đại sứ quán….
Diễn đàn bao gồm chuỗi các hội thảo chuyên đề và đối thoại chính sách cấp cao với khoảng gần 1.500 đại biểu lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương, các nhà khoa học, chuyên gia nghiên cứu trong và ngoài nước, doanh nghiệp, các hiệp hội và đại diện một số tổ chức phát triển quốc tế. Qua đó, nhiều vấn đề “nóng” của nền kinh tế Việt Nam đã được mổ xẻ tại diễn đàn.
Phát triển năng lượng xanh
Một trong những hội thảo chuyên đề thu hút được nhiều sự quan tâm tại diễn đàn là Hội thảo “Năng lượng xanh cho phát triển kinh tế bền vững”. Hội thảo đã đem đến một góc nhìn đa chiều về thách thức của ngành năng lượng trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay; tổng quan tiềm năng năng lượng và năng lượng xanh của Việt Nam; các cơ chế tài chính, tín dụng quốc tế hỗ trợ cho phát triển năng lượng; thu hút đầu tư vào lĩnh vực năng lượng, nhất là vào năng lượng xanh; đánh giá khả năng chuyển giao công ứng dụng công nghệ trong phát triển năng lượng tái tạo; phân tích triển vọng phát triển năng lượng sạch tại Việt Nam…
Ông Nguyễn Văn Bình – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương.
Tại hội thảo, ông Nguyễn Văn Bình – Trưởng Ban Kinh tế Trung ương – cho biết, đảm bảo an ninh năng lượng là một trong những điều kiện quan trọng hàng đầu cùng với đảm bảo an ninh lương thực và đảm bảo an ninh quốc phòng làm nền móng để ổn định và phát triển kinh tế – xã hội đất nước. Thực tế cho thấy, nhu cầu năng lượng cho phát triển kinh tế – xã hội ngày càng tăng cao đã gây sức ép lên hạ tầng cơ sở ngành năng lượng, đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn trong bối cảnh nguồn lực đất nước còn hạn hẹp.
Theo ông Nguyễn Văn Bình, các nguồn nhiên liệu hóa thạch như than đá, dầu mỏ, khí đốt đã và đang đáp ứng phần lớn nhu cầu năng lượng của đất nước; tuy nhiên năng lượng hóa thạch là nguồn năng lượng không tái tạo, việc sử dụng nhiều năng lượng hoá thạch làm gia tăng hiệu ứng nhà kính dẫn đến biến đổi khí hậu, gây ô nhiễm môi trường. Ngoài ra, các nguồn nhiên liệu hoá thạch hiện nay đang dần dần cạn kiệt; vì vậy, việc nghiên cứu và sử dụng các nguồn năng lượng xanh thay thế, có khả năng tái tạo và khắc phục được các hạn chế nêu trên như các dạng năng lượng gió, năng lượng mặt trời, địa nhiệt hay năng lượng sinh khối, năng lượng sinh học là một nhu cầu tất yếu.
Phát triển năng lượng xanh ngày nay đang là xu thế mới, làm thay đổi khá nhanh chóng cơ cấu ngành năng lượng. Nhiều quốc gia trên thế giới đã khẩn trương xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách để phát triển năng lượng xanh với tầm nhìn dài hạn. Trong khi đó, Việt Nam, được đánh giá có cường độ bức xạ cao, nhất là tại các khu vực Duyên hải Miền Trung, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Đồng thời, theo các số liệu khảo sát ban đầu chúng ta đã phát hiện ra nhiều cánh đồng gió tiềm năng với lưu lượng và vận tốc gió lớn tại các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận, Bạc Liêu. Việt Nam còn là nước có cơ cấu ngành nông, lâm, ngư nghiệp chiếm tỷ trọng khá cao, các phụ phẩm từ những ngành này hàng năm rất lớn…
“Đây là những nguồn tài nguyên có nhiều tiềm năng, có lợi thế so sánh để làm cơ sở để phát triển ngành năng lượng xanh ở Việt Nam. Để phát huy được những tiềm năng và lợi thế này, chúng ta cần sớm xây dựng những cơ chế, chính sách mang tính đột phá, đón đầu để thúc đẩy hơn nữa sự phát triển mạnh mẽ năng lượng xanh; khuyến khích, huy động mọi nguồn lực xã hội để phát triển năng lượng xanh với giá hợp lý; tăng dần tỷ lệ năng lượng xanh trong tổng sản lượng và tiêu dùng năng lượng quốc gia” – ông Nguyễn Văn Bình nhấn mạnh.
Đưa ra cái nhìn cụ thể hơn về nhu cầu năng lượng sẽ tăng mạnh trong thời gian tới, ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng Bộ Công Thương – cho hay, theo kết quả nghiên cứu của Viện Năng lượng – Bộ Công Thương, đến năm 2035, tổng nhu cầu năng lượng cuối cùng tăng gần gấp 2,5 lần so với năm 2015. Năng lượng cuối cùng có thể tăng từ 54 triệu TOE ở năm 2015 lên đến khoảng 90 triệu TOE ở năm 2025. Năng lượng cuối cùng có thể đạt mức 134,5 triệu TOE vào năm 2035. Trong giai đoạn 2016 – 2025, năng lượng cuối cùng tăng khoảng 5,1%/năm và có xu hướng giảm xuống mức 4,2%/năm ở giai đoạn 2026 – 2035 phù hợp với mức tăng dần của tăng trưởng GDP và sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Ông Hoàng Quốc Vượng – Thứ trưởng Bộ Công Thương.
Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng nhấn mạnh, chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến 2020, tầm nhìn đến 2050 đề ra mục tiêu phấn đấu đảm bảo cung cấp đầy đủ năng lượng với chất lượng cao cho nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội. Cụ thể, đến năm 2020 đạt khoảng 100 – 110 triệu TOE, đến năm 2025 khoảng 110 – 120 triệu TOE và đến năm 2050 khoảng 310 – 320 triệu TOE nguồn cung năng lượng. Để đạt được các mục tiêu đề ra trong chiến lược, một trong các giải pháp ưu tiên đó là thúc đẩy phát triển các dạng năng lượng tái tạo, bao gồm: thủy điện vừa và nhỏ, năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, khí sinh học, nhiên liệu sinh học. Thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng năng lượng tái tạo trong sản xuất điện, sản xuất nhiệt và nhiên liệu giao thông. Duy trì tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tổng cung cấp năng lượng sơ cấp ở trên mức 30% đến năm 2035. Theo đó, để tăng tỷ lệ các nguồn điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo sẽ xây dựng các chương trình, cơ chế, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật với các cơ chế khuyến khích phù hợp để đẩy nhanh phát triển nguồn điện sử dụng nguồn năng lượng tái tạo, trong đó tập trung vào cơ chế giá hỗ trợ cho các dự án sử dụng năng lượng gió, mặt trời, sinh khối, địa nhiệt, ….
Tại hội thảo chuyên đề trong khuôn khổ Diễn đàn, ông Đặng Văn Thành – Chủ tịch Tập đoàn TCC – cho rằng, năng lượng sạch là xu thế tất yếu. Tuy nhiên, nguồn điện cho hệ thống điện hiện nay của Việt Nam chủ yếu dựa vào thủy điện và nhiệt điện than, năng lượng tái tạo chiếm tỷ trọng rất nhỏ. Trong khi đó, tiềm năng về các nguồn năng lượng tái tạo ở Việt Nam khá lớn. Do đó, để phát triển năng lượng tái tạo, chính phủ cần tạo cơ chế công bằng và định hướng rõ ràng để các doanh nghiệp cùng tham gia, đáp ứng nhu cầu phát triển năng lượng; quy hoạch tỷ trọng năng lượng tái tạo ở mức 30% vào năm 2030. Về phía Tập đoàn TCC, chúng tôi phấn đấu đến 2020, trở thành tổ chức tư nhân đầu tư hàng đầu về năng lượng sạch ở Việt Nam, cũng như tạo ra các nguồn năng lượng xanh phục vụ cộng đồng.
Nhiều “dư địa” tăng năng suất
Trong khuôn khổ Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2018 đã diễn ra Hội thảo quốc tế chuyên đề về “Cải thiện năng suất trong bối cảnh công nghiệp hóa”. Hội thảo nhằm đánh giá về điểm nghẽn tăng trưởng và bản đồ năng suất của Việt Nam, trên cơ sở đó đề xuất những giải pháp cụ thể giúp Việt Nam có thể tận dụng được lợi thế sản xuất tiềm năng và nâng cao năng lực sản xuất, năng suất lao động góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Tại hội thảo, ông Ngô Văn Tuấn – Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương – chia sẻ, việc thúc đẩy tăng năng suất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng và quyết định đưa nước ta phát triển nhanh và bền vững cho giai đoạn mới và các năm tiếp theo. Việt Nam có nhiều tiềm năng và dư địa, cơ hội để gia tăng tốc độ tăng năng suất, trước hết là phân bổ, sử dụng hiệu quả nguồn lực, chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, áp dụng khoa học công nghệ để tăng năng suất của từng doanh nghiệp, từng nội ngành kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh, đào tạo nguồn nhân lực.
Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2018 thu hút gần 1.500 đại biểu tham dự.
Ông Ngô Văn Tuấn khẳng định, nhìn tổng thể cải thiện năng suất, không chỉ có việc nâng cao năng suất của người lao động mà còn nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn, năng suất vốn. Quan trọng nhất là phải nâng cao được năng suất các yếu tố tổng hợp TFP và ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, cải thiện năng suất, đó chính là nền tảng của nâng cao năng lực cạnh tranh của mọi quốc gia, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững.Vì vậy, bên cạnh nỗ lực, phát huy sức sáng tạo của chính mình, Việt Nam rất cần sự hỗ trợ và tham vấn của các đối tác phát triển, cộng đồng doanh nghiệp, các chuyên gia, nhà khoa học trong và ngoài nước để tìm ra các giải pháp, các chính sách phù hợp trong bối cảnh khoa học công nghệ tiến bộ vượt bậc, cách mạng công nghiệp 4.0 lan tỏa nhanh chóng, tiến trình mở cửa hội nhập của Việt Nam đang ngày càng sâu rộng.
Chia sẻ về câu chuyện thành công của Nhật Bản, Giáo sư Trần Văn Thọ – Đại học Waseda (Tokyo), Thành viên Tổ tư vấn Kinh tế của Thủ tướng Chính phủ – cho biết, vào giữa thập niên 1950, cơ cấu sản xuất, xuất khẩu và lao động của Nhật giống Việt Nam hiện nay. Trình độ phát triển ở gần mức trung bình cao nhưng còn nhiều đặc trưng của nước thu nhập trung bình thấp. Tuy nhiên, chỉ trong vòng gần 20 năm, Nhật chuyển hẳn lên vị trí của nước có thu nhập cao, trở thành cường quốc công nghiệp vào thập niên 1970. Giai đoạn 1955-1973 được gọi là thời đại phát triển cao độ.
Các yếu tố làm kinh tế Nhật Bản phát triển ngoạn mục đó là, tỷ lệ đầu tư/GDP cao, chủ yếu là khu vực tư nhân. Đầu tư đi liền với cách tân công nghệ qua đổi mới thiết bị và tích cực du nhập công nghệ. Lao động dịch chuyển nhanh từ nông nghiệp và từ khu vực kinh doanh cá thể sang công nghiệp. Trong nội bộ công nghiệp cũng có sự chuyển dịch từ các ngành giá trị gia tăng thấp như dệt may, giày dép lên các ngành giá trị cao như sản phẩm điện tử, ô tô, .. Các ngành truyền thống như thép, đóng tàu cũng qua cách tân công nghệ chiếm vị trí hàng đầu thế giới về năng suất và chất lượng. Kết quả là năng suất lao động tăng nhanh. TFP đóng góp phần lớn nào tốc độ tăng trưởng ngoạn mục (trung bình 10%) của nền kinh tế Nhật Bản.
Đối với nền kinh tế Việt Nam, ông Thọ cho rằng, Việt Nam có thể phát triển tốc độ cao, vượt qua bẫy thu nhập trung bình dễ dàng nếu có chíến lược tận dụng tiềm năng đang có và lợi thế nước đi sau. Dư địa để tăng năng suất là chuyển dịch lao động từ nông sang công nghiệp, từ khu vực cá thể sang hình thức tổ chức doanh nghiệp hiện đại, từ tăng qui mô doanh nghiệp đang quá nhỏ hiện nay. Bên cạnh đó, khuyến khích du nhập công nghệ, kết hợp với phát triển thị trường vốn sẽ thúc đẩy đầu tư theo hướng cách tân công nghệ, tăng năng suất. Cần tiến hành công nghiệp hóa theo chiều sâu và theo diện rộng để tạo việc làm năng suất cao cho lao động chuyển từ nông nghiệp và khu vực cá thể. Thay đổi chiến lược thu hút FDI, doanh nghiệp trong nước sẽ tham gia vào mạng lưới cung ứng toàn cầu và tăng năng suất qua chuyển giao công nghệ.
Cải thiện mạnh mẽ môi trường kinh doanh
Diễn ra chiều ngày 11/1, Hội thảo “Cải thiện môi trường kinh doanh thông qua cải cách quản trị rủi ro tín dụng trong thương mại và đầu tư” đã tập trung thảo luận sôi nổi xung quanh những vấn đề: Cải thiện môi trường đầu tư thông qua nâng cao chất lượng thông tin tài chính tại các doanh nghiệp ở Việt Nam; thực trạng quản lý rủi ro tín dụng doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay và sự cần thiết xây dựng một hệ thống hạ tầng chia sẻ thông tin dữ liệu nội bộ nhằm chuyển đổi từ mô hình truyền thống sang mô hình kỹ thuật số; đề xuất các giải pháp hoàn thiện hơn trong công tác ứng dụng cơ sở dữ liệu, dữ liệu lớn và áp dụng các công nghệ xử lý dữ liệu nhằm cải thiện công tác quản trị rủi ro tín dụng và góp phần vào sự phát triển lành mạnh và ổn định của hệ thống ngân hàng cũng như góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam.
Diễn đàn đã đưa ra góc nhìn đa chiều nhiều vấn đề của nền kinh tế.
Ông Nguyễn Kim Anh – Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam – cho hay, hiện nay môi trường đầu tư tại Việt Nam cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước nói chung và cho các nhà đầu tư nước ngoài nói riêng vẫn còn phải cải thiện. Theo báo cáo khảo sát của Ngân hàng Thế giới mới nhất thì năm 2017 Việt Nam xếp thứ 68 trong tổng số 190 quốc gia và vùng lãnh thổ về “sự thuận tiện trong kinh doanh”. Mặc dù có sự cải thiện đáng kể từ vị trí 80 vào năm 2016 lên 68 nhưng nhiều yếu tố về môi trường kinh doanh vẫn cần phải cải thiện trong đó có vấn đề đơn giản hóa hơn nữa thủ tục thành lập doanh nghiệp, giấy phép xây dựng, tiếp cận tín dụng, và sự thuận tiện của thương mại xuyên biên giới…
Theo GS.TS Nguyễn Quang Thuấn – Chủ tịch Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam – môi trường kinh doanh của Việt Nam năm 2017 lần đầu tiên được cộng đồng quốc tế đánh giá có sự cải thiện vượt bậc khi so sánh với Trung Quốc trong cùng kỳ. Nếu như vào năm 2015, môi trường kinh doanh của Việt Nam vẫn bị tụt hậu 6 bậc xếp hạng so với Trung Quốc, thì đến năm 2017 Việt Nam không những đã tiến kịp mà còn vượt qua Trung Quốc tới 10 bậc xếp hạng. Đây cũng là lần đầu tiên trong hơn một thập kỷ qua, điểm số xếp hạng về môi trường kinh doanh của Việt Nam (đạt 67,17 điểm năm 2017) được đánh giá cao hơn khi so sánh trực tiếp với Trung Quốc (đạt 65,29 điểm) trong cùng kỳ.
Cải thiện môi trường kinh doanh đã góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Theo Báo cáo đánh giá năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) công bố ngày 27/9/2017, chỉ số năng lực cạnh tranh của Việt Nam đã tăng từ 4,31 năm 2016 lên 4,4 năm 2017. Xếp hạng năng lực cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam tăng 5 bậc so với năm 2016 và tăng 20 bậc so với 5 năm trước đây. Và cùng với đó, hiệu quả đầu tư của nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Hệ số ICOR năm 2017 là 4,93, thấp hơn so với năm 2016 là 5,15 (tính theo giá cố định). Hệ số ICOR thấp hơn phản ánh hiệu quả đầu tư của nền kinh tế cao hơn.
Việt Nam phấn đấu trở thành con hổ kinh tế mới của châu Á
Phát biểu tại Phiên đối thoại chính sách của Diễn đàn Kinh tế Việt Nam 2018, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đánh giá, năm 2017 là một năm thành công của ngành kinh tế Việt Nam với tốc độ tăng trưởng GDP là 6,81%. Việt Nam là quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong khu vực Đông Nam Á và châu Á. Theo đó, việc cải cách kinh tế được đẩy mạnh, tăng cường công khai minh bạch, phòng chống tham nhũng. Năm 2018, môi trường kinh doanh được cải thiện đáng kể, cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng và công bằng, qua đó củng cố niềm tin của các nhà đầu tư và công đồng doanh nghiệp tạo ra một sinh khí mới cho nền kinh tế.
“Cần thẳng thắn thừa nhận kinh tế Việt Nam còn đối mặt nhiều thách thức trong trung và dài hạn, trong đó làm thế nào để phát triển nhanh và bền vững, thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình là yêu cầu quan trọng nhất thời gian tới” – Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng khẳng định, Chính phủ đã yêu cầu các bộ ngành và địa phương phải phấn đấu cùng mục tiêu tăng trưởng trên mức Quốc hội giao, năng suất lao động xã hội cao hơn hẳn so với trước, các chỉ số môi trường được cải thiện, nền kinh tế có chuyển biến mạnh mẽ, sức sống, năng lực cạnh tranh nền kinh tế từng ngành, từng địa phương, từng doanh nghiệp; Mọi người dân Việt Nam nhất là người nghèo phải có cuộc sống tốt hơn, cả về vật chất lẫn tinh thần.
Sau 30 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nền Kinh tế Việt Nam trở thành nền kinh tế thị trường năng động, hội nhập mạnh mẽ, điểm đến đầu tư hấp dẫn khu vực và thế giới. Tuy nhiên, Thủ tướng cho rằng: Chúng ta không được chủ quan và thỏa mãn, không được phép cho bộ máy phát triển dừng lại. Việt Nam cần kiên trì thay đổi mô hình mới dựa trên nền tảng năng suất và đổi mới sáng tạo, giảm dần sự phụ thuộc tài nguyên, lao động giá rẻ. Chúng ta phải coi thành tựu năm 2017 là cơ sở tự tin hơn trong nỗ lực tái cơ cấu nền kinh tế và tăng trưởng bền vững, tạo ra nền móng vững chãi hơn để kinh tế tăng trưởng cao và lâu dài.
“Cần biến khát vọng của dân tộc thịnh vượng thành hành động cụ thể, tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức, phấn đấu trở thành con hổ kinh tế mới của châu Á. Bây giờ chưa được, nhưng tại sao lại không và luôn phải tìm câu trả lời làm gì để đạt được điều ấy”– Thủ tướng nói.
Tại phiên đối thoại, ông John Kerry – cựu Ngoại trưởng Mỹ – phân tích, phương thức tăng trưởng của Việt Nam sẽ quyết định tính tăng trưởng bền vững của nền kinh tế. “Tôi muốn nhấn mạnh tới các chính sách năng lượng sạch. Giải pháp có sẵn, công nghệ chuyển nhanh, gồm năng lượng mặt trời, gió, sinh khối… Nếu tăng trưởng còn dựa vào than đá, điện than, thách thức sẽ lớn hơn nhiều, nhất là chất lượng cuộc sống. Chính phủ Việt Nam cần chuyển động nhanh hơn thông qua thể chế, khung khổ pháp luật, từ đó tạo sân chơi hấp dẫn, để Việt Nam là điểm đến. Đó cũng là cách thức tăng trưởng của những con hổ châu Á” – ông John Kerry đưa ra khuyến nghị.
Nguồn: Báo công thương
15/01/2018